LTS của NSGN : Người ta cứ nghĩ rằng, với sự phát triển của
khoa học thì mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới này đều được giải thích một
cách thỏa đáng. Nhưng thực tế, khoa học càng phát triển thì càng nảy sinh thêm
nhiều vấn đề chưa giải thích được, thách thức trí thông minh và sự tìm tòi của
các nhà khoa học. Để tháo gỡ những khó khăn, những nan giải trong các lĩnh vực
khoa học, nhiều nhà khoa học đã tìm đến với giáo lý đạo Phật, tìm đến với kho tàng
triết học đồ sộ của Phật giáo. Liệu triết học Phật giáo, cụ thể ở đây là Duy
thức học, có thể giúp họ đưa ra những kết luận rõ ràng về vấn đề trí thông minh
nhân tạo, về những câu hỏi đến từ Cơ học lượng tử, từ Tâm lý học, Xã hội học…?
Để giúp mọi người hiểu thêm về vấn đề này, Nguyệt san Giác Ngộ giới thiệu đến
bạn đọc loạt bài nghiên cứu chuyên sâu về Duy thức học, vấn đề Ý thức - một vấn
đề được nhiều nhà Phật học và nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu từ lâu, song vẫn
luôn có những phát hiện mới mẻ.
Vị trí và vai
trò của ý thức
Theo Phân tâm học, tâm của con người chia làm hai
là ý thức và vô thức. Duy thức học thì phân làm tám và ý thức là một trong tám
phần đó. Như vậy, nhìn theo quan điểm nào thì ý thức cũng chỉ là một phần của
tâm. Tuy vậy, ý thức rất năng động và có phạm vi hoạt động rất lớn.
Ý thức có thể hướng ra ngoài để tìm hiểu về thế
giới, có thể hướng vào trong để tìm hiểu nội tâm, khám phá vô thức. Ý thức có
thể duyên được cả ba thời, dung thông cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Ý
thức có khả năng liên tưởng, tưởng tượng, trừu tượng hóa, phân tích, tổng hợp,
suy luận, kết luận… Ý thức còn có vai trò điều khiển nhiều hoạt động của thân
xác. Tóm lại, ý thức là thành phần lanh lợi và đa năng nhất của tâm, nên nó
được xem là công cụ chính yếu của triết học và khoa học.
Con người là con vật biết tư duy. Chính tư duy đã
làm cho chúng ta khác hẳn với các loài khác. Tư duy là một hoạt động của ý
thức. Với ý thức, con người đã tạo ra nhiều ngành khoa học, gặt hái được nhiều
tri thức. Qua đó con người đã làm thay đổi thế giới, thống trị thế giới. Hiện
nay, chúng ta đã sở hữu được một lượng kiến thức và tri thức khổng lồ về các
hiện tượng thiên nhiên và tâm linh nhưng chúng ta lại có quá ít hiểu biết về ý
thức của chính mình. Câu hỏi “ý thức là gì?” trở thành yêu cầu cấp bách.
Giải quyết câu hỏi này sẽ giúp chúng ta hiểu được
bản chất của nhận thức và tư duy, qua đó giải quyết được nhiều vướng mắc mà các
ngành khoa học đang gặp phải. Trả lời được câu hỏi trên cũng giúp chúng ta giải
quyết được vấn đề nhận thức của khoa học. Vì sao? Vì khoa học là những môn học
về hiện tượng, qua quá trình phát triển hiện đang phải đối mặt với vấn đề bản
thể học. Có thể nêu cụ thể một số trường hợp sau:
1. Trong lãnh vực robot học, có một câu hỏi gây
tranh cãi trong các thập kỷ qua là: “Trí thông minh nhân tạo” (artificial
Intelligence) có thể trở thành hiện thực không? Nói cách khác, người ta có thể
tạo ra các robot thông minh như con người không? Nhiều nhà khoa học cho rằng
có. Nhiều nhà khoa học khác cho rằng không. Cho đến nay vấn đề này chưa ngã ngũ
vì chưa giải quyết được câu hỏi ý thức là gì?
2. Trong lãnh vực vật lý: Theo quan điểm cổ điển,
thế giới là một thực thể tồn tại độc lập với ý thức của con người. Chính vì
thế, thái độ đúng đắn của một nhà vật lý là đóng vai trò quan sát khi làm thí
nghiệm. Trong vật lý hiện đại, cụ thể là trong cơ học lượng tử, khi quan sát
các thành phần cơ bản của vật chất, các hạt cơ bản, các hạt này vừa có tính
liên tục của sóng, vừa có tính không liên tục của hạt. Điều khó hiểu là khi con
người tìm cách đo lường quan sát, nó mới tự cụ thể hóa bằng hạt. Nếu không có
quan sát viên thì không thể nói nó là gì. Chính vì thế, trong cơ học lượng tử,
nhà vật lý không chỉ đóng vai trò một quan sát viên mà còn đóng vai trò của một
người tham gia khi làm thí nghiệm. Điều này đặt ra một số câu hỏi sau: Phải
chăng thế giới được xây dựng bằng ý thức của con người? Phải chăng thế giới
được hình thành do có sự tham gia của ý thức? Nếu có, ý thức tham gia ở mức độ
nào trong việc tạo nên thế giới?
Trên chỉ là hai trường hợp cụ thể. Trong thực tế,
việc hiểu được ý thức còn giải quyết được nhiều vướng mắc của các ngành khoa
học khác.
Ý thức trong
Duy thức học
Theo Duy thức học, tâm chúng ta tạm phân thành tám:
Năm thức trước, là nhãn thức, nhĩ thức, tĩ thức, thiệt thức, thân thức, được
gọi là tiền ngũ thức, cộng với
phần ý thức được gọi là sáu thức
ngoài, vì chúng ta dễ dàng nhận ra chúng. Hai thức sau là thức mạt-na và
thức thứ tám, gọi là hai thức trong,
vì chúng hoạt động một cách âm thầm, sâu kín, khó nhận thấy. Sáu thức ngoài
hoạt động có gián đoạn, lúc có, lúc không. Hai thức trong hoạt động không gián
đoạn.
Căn, cảnh,
thức
Sáu thức ngoài mỗi thức đều có chỗ nương riêng. Chỗ
nương của thức gọi là căn. Nói cách khác, căn là nơi phát ra thức. Tương ứng
với sáu thức ta có sáu căn là nhãn căn (con mắt), nhĩ căn (lỗ tai), tĩ căn (lỗ
mũi), thiệt căn (cái lưỡi), thân căn (cơ thể) và ý căn (chính là mạt-na). Sáu
căn, mỗi căn có khả năng kết hợp với một loại cảnh riêng, để tạo ra thức. Cụ
thể như:
Nhãn căn kết hợp với sắc cảnh để tạo ra nhãn thức,
là sự nhận biết về sắc tướng (hình ảnh, màu sắc).
Nhĩ căn kết hợp với thanh cảnh để tạo ra nhĩ thức,
là sự nhận biết về âm thanh.
Tĩ căn kết hợp với hương cảnh để tạo ra tĩ thức, là
sự nhận biết về mùi.
Thiệt căn kết hợp với vị cảnh để tạo ra thiệt thức,
là sự nhận biết về vị.
Thân căn kết hợp với xúc cảnh để tạo ra thân thức,
là sự nhận biết về xúc chạm.
Ý căn kết hợp với pháp cảnh để tạo ra ý thức, là sự
nhận biết về pháp.
Đến đây, để dễ nhận ra tính thực tế và hợp lý của
cách phân chia trên, chúng ta hãy làm một sự đối chiếu giữa Duy thức học và Tâm
lý học mà cụ thể là Phân tâm học phương Tây.
Theo Phân tâm học, tâm linh chúng ta được phân
thành hai là ý thức và vô thức.
Vô thức là phần tâm linh hoạt động ở bên ngoài ý thức. Ý thức của chúng ta chỉ
biết được chút ít về vô thức. Có nhiều vùng của vô thức, ý thức hoàn toàn không
biết. Vô thức chính là thức mạt-na và thức thứ tám trong Duy thức học.
- Vì chưa thể phân tích vô thức thành hai phần như
Duy thức học, nên Phân tâm học không thể lý giải tính cá nhân, còn gọi là sự
chấp ngã, có mặt nơi các chủ thể nhận thức. Chấp ngã, là cho rằng ta là chủ thể
thân tâm của chính mình.
- Vì ý thức lấy mat-na làm căn, phần này thuộc về
vô thức, nên ý thức luôn chịu sự tác động của vô thức. Đây là điều đã được Phân
tâm học khám phá, nhưng Phân tâm học chưa thể chỉ ra tác động ấy trong từng ý
niệm như Duy thức học.
Sáu thức ngoài được Phân tâm học gom về ý thức. Sở dĩ có hiện tượng này, vì theo
truyền thống, các nhà tâm lý phương Tây vẫn cho rằng các giác quan như mắt,
tai… là thành phần của bộ máy sinh lý. Chỉ có ý thức là thành phần của bộ máy
tâm thần (thành phần tâm lý). Điều này dẫn đến các hệ quả sau:
Việc xem mắt là chiếc máy chụp ảnh, tai là máy ghi
âm… khiến Tâm lý học không thể giải thích tại sao khi một tác động bên ngoài
(là một hiện tượng vật lý, thuần mang tính vật chất) kích thích lên các giác
quan (cũng là thành phần mang tính vật chất) lại tạo ra các cảm giác, là một
hiện tượng tâm lý. Tâm lý gia Bourdon nói: “Sự xuất hiện cảm giác sau khi có sự
kích thích không thể giải thích được”. Nếu quy các cảm giác về cho ý thức,
chúng ta vẫn gặp lại những khó khăn trên, nên Clarapèle viết: “Vấn đề triết học
liên hệ đến nguồn gốc của ý thức là vấn đề khó khăn nhất”. Cụ thể hơn, dù máy
chụp hình có ghi lại được các hình ảnh thì chúng ta cũng không thể nói rằng máy
chụp ảnh biết được các hình ảnh mà nó đã chụp được.
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai
phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan
mắt, tai… mà ta có thể nhận biết. “Thắng nghĩa căn” là phần tịnh sắc vi tế. Nó
là thể của phù trần căn, và là chỗ nương chính của 5 thức nhãn thức, nhĩ thức… Bát Thức Qui Cũ nói: “Ngũ thức đồng y
tịnh sắc căn”. Căn, là chỗ thức y tựa, nhưng cần hiểu nó như một duyên giúp 5
thức sinh khởi hơn là thứ tạo ra 5 thức. Gốc, đều bắt nguồn từ thức thứ tám.
Theo tinh thần Duy thức, các căn đều là sự biến
hiện của thức, không lìa thức mà có, nên ở nơi căn đã hàm chứa đủ hai thành phần
sinh lý và tâm lý. Vì vậy, việc xuất hiện các cảm giác (các thức ngoài) khi căn
tiếp xúc với trần cảnh là điều tự
nhiên.
Việc quy 6 thức ngoài vào ý thức đã đồng hóa sự
nhận biết của 5 thức trước với việc nhận biết của ý thức. Điều này không phù
hợp với thực tế. Trên thực tế, ý thức không thể nhận biết trực tiếp về trần
cảnh. Ta có thể dễ dàng kiểm chứng: Nếu mắt bị mù, tai bị điếc… thì chúng ta
không thể nhận thức về hình ảnh, âm thanh… dù các cảnh ấy đang hiện diện và ý
thức vẫn còn đó. Ý thức chỉ biết các trần cảnh thông qua 5 thức ngoài và xem đó
là những biểu hiện của pháp. Nói cách khác, thứ mà ý thức nhận biết là pháp,
không đồng với đối tượng nhận biết của 5 thức ngoài.
Vậy “Pháp” là gì? Tại sao đối tượng nhận biết của ý
thức lại là pháp? Tâm của ta vận hành thế nào để tạo ra một ý niệm về pháp
trong ý thức?
Muốn hiểu được các điều trên, trước hết cần phân
biệt hai loại ý thức: Ý thức hiện lượng và ý thức phân biệt.
Ý thức hiện
lượng và ý thức phân biệt
Ý thức hiện lượng: Còn gọi là ý thức vô phân biệt, là loại ý thức vừa sinh ra đã có(1)
Lúc còn bé, người ta thường sống với loại ý thức này. Với ý thức vô phân biệt,
chúng ta cũng biết về trần cảnh thông qua 5 giác quan, nhưng không khởi lên các
ý niệm phân biệt như cái này, cái kia, trong, ngoài…
Ý thức phân biệt: Loại ý thức này chỉ xuất hiện và phát triển theo quá trình lớn lên của
con người. Đây là loại ý thức tập thành. Nghĩa là do huân tập mà có. Ý thức
phân biệt có được từ kinh nghiệm sống của cá nhân và từ sự giáo dục của gia đình
và xã hội.
Thí dụ 1: Một đứa bé bò chơi quanh phòng, chụp được
gì liền cho vào miệng. Nếu nuốt được nó sẽ nuốt, không nuốt được nó sẽ nhả ra.
Nếu sự việc này diễn ra nhiều lần (tập) đứa bé sẽ dần nhận ra thứ gì ăn được,
thứ gì không ăn được.
Thí dụ 2: Một đứa bé, nếu được hướng dẫn cái này là
ghế, cái này là bàn… và sự hướng dẫn diễn ra nhiều lần (tập) thì về sau đứa bé
sẽ tự mình gọi tên khi nó gặp các vật đó.
Hai thí dụ trên cho thấy việc huân tập từ kinh
nghiệm sống và từ sự giáo dục đã làm hình thành các ý niệm phân biệt. Khi ý
thức lấy các ý niệm phân biệt này làm cơ sở cho sự nhận biết về thế giới thì
gọi là ý thức phân biệt.
Nơi người trưởng thành, ý thức phân biệt chiếm ưu thế. Ý thức hiện lượng vẫn còn đó nhưng khó nhận ra. Khi căn tiếp xúc
với trần cảnh, ở sát na đầu tiên, ý thức vẫn còn trong trạng thái hiện lượng.
Qua sát na thứ hai, ý thức phân biệt mới xuất hiện.
Những ý niệm phân biệt được tạo ra theo nhiều cách
khác nhau. Ở con người, phương tiện chính để tạo ra các ý niệm phân biệt là ngôn
từ. Ngôn từ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các ý niệm phân biệt cho
con người.
Đôi điều cần
biết về ngôn từ
Trước hết, chúng ta cần lưu ý, khi mới sinh ra
không ai biết gì về ngôn ngữ. Nếu một cá nhân không được hướng dẫn, dạy dỗ,
không có điều kiện tiếp xúc thường xuyên với ngôn ngữ thì cá nhân ấy khi lớn
lên vẫn không biết sử dụng ngôn ngữ. Điều đó cho thấy, ngôn ngữ không phải là
một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng tập thành. Ngôn ngữ chỉ được hình
thành sau quá trình huân tập.
Ngôn ngữ với tính cách uyển chuyển của nó đã cho
phép tạo ra vô vàn ý niệm phân biệt. Như cũng là màu xanh mà có xanh nhạt, xanh
đậm… càng có nhiều ý niệm phân biệt thì ý thức phân biệt càng phát triển, kéo
theo sự phát triển của tư duy. Vì thế, chính ngôn từ và sự giáo dục đã làm cho
con người khác hẳn các sinh vật khác.
Thông thường, một đứa bé bắt đầu tiếp cận với ngôn
ngữ bằng cách tập gọi tên các sự vật quen thuộc. Việc gọi được tên các sự vật
góp phần tạo ra sự nhận thức tách biệt rạch ròi giữa các sự vật. Song song với
quá trình tách biệt các sự vật với nhau, là tiến trình gắn thuộc tính cho từng
sự vật. Điều này dẫn đến một cách nhận thức mới. Đó là cách nhận thức về các sự
vật trong thế giới thông qua ngôn từ. Đây là môi trường hoạt động chính của ý thức phân biệt.
Nhìn trên chiều sâu của tâm, ngôn từ đã hình thành
theo phương thức sau: Khi một đứa bé được chỉ dạy cái này là bàn, cái này là
ghế… thì hình ảnh và tên gọi của các vật sẽ được ghi nhận và lưu trữ trong tâm.
Nếu việc chỉ dạy này diễn ra nhiều lần, về sau khi bắt gặp các vật đó, đứa bé
sẽ gọi được tên các vật đó.
Sau khi ghi nhận, ngôn từ và hình ảnh của sự vật
đều được lưu trữ trong tâm. Nói chính xác là được lưu trữ trong thức thứ tám.
Vì sao? Vì 5 thức ngoài hoạt động có gián đoạn và chỉ duyên với các cảnh hiện
tại, nên ngôn từ và hình ảnh không thể lưu trữ ở đó. Chúng cũng không thể được
lưu trữ nơi ý thức, vì ý thức hoạt động có gián đoạn. Lại nữa, nếu được lưu trữ
ở ý thức thì chúng ta phải thường thấy chúng. Trên thực tế, ngôn từ về một sự
vật nào đó chỉ xuất hiện lúc thích hợp. Lúc bình thường nó không xuất hiện nơi
ý thức. Do có khả năng lưu trữ đó mà thức thứ tám còn có tên là “tạng thức”, là
kho chứa các chủng tử thức.
Trong thời điểm hiện tại, khi mắt bắt gặp một sự vật mà ta có thể gọi tên chúng, điều đó cũng có
nghĩa là tên gọi các sự vật đã được lưu trữ trong tạng thức. Nói theo
Phân tâm học, là đã được lưu trữ trong vô thức. Nếu trước đây ta chưa từng biết
tên các sự vật đó, thì ở hiện tại khi bắt gặp các sự vật đó, ta không thể biết
tên gọi của chúng.
Pháp là gì?
Trên thực tế, chúng ta sử
dụng nhiều danh từ để chỉ cho những sự vật xuất hiện trong thế giới. Những sự
vật đó vừa có tính đa dạng, vừa có tính đổi thay, vừa có tính đơn nhất.
- Như cùng là người mà có
người da trắng, da đen, cao to, nhỏ bé, thông minh đần độn… Các cá thể người
tuy có nhiều sai khác về hình thể tính cách nhưng tất cả đều là người.
- Anh A lúc xưa trẻ nay đã
già, lại có lúc vui, lúc buồn, lúc khỏe mạnh, lúc ốm đau … dù luôn thay đổi,
nhưng khi nào cũng là anh A.
Những sự vật vừa có tính đa
dạng, thay đổi và đơn nhất như thế được nhà Phật gọi là pháp. Như vậy, những
danh từ được dùng để chỉ thị cho pháp. Mỗi danh từ là một pháp. Phần đơn nhất
của pháp, gọi là tánh. Phần đa dạng
và hay thay đổi của pháp gọi là tướng
hay pháp tướng.
Pháp được định nghĩa như
sau: “Bất cứ một cái gì có khả năng duy
trì tự tánh của nó vào trong một số hình tướng để khi nhìn đến, ta liền nhận
ra, gọi là pháp”. Xét ra, mọi sự mọi vật trên đời đều là pháp.
Vì sao đối tượng nhận biết của ý thức là pháp?
5 giác quan của ta chỉ ghi
nhận hình tướng của pháp ở thời điểm hiện tại, vì thế 5 thức ngoài chỉ biết
được cảnh hiện tại. Cảnh hiện tại là một trong vô số hình tướng của pháp. Thông
qua hình tướng đó, ý thức biết được đó là gì, là một pháp. Đây là chỗ sai khác
giữa ý thức và 5 thức ngoài. Ý thức không chỉ biết về một hình tướng mà còn
biết đó là cái gì.
Pháp bên ngoài thông qua 5
thức ngoài đã trở thành những ảnh tượng ở trong tâm. Những ảnh tượng này chính
là pháp trần, là đối tượng nhận biết của ý thức.[1]
Tâm chúng ta vận hành thế nào để tạo ra một ý niệm về pháp cho ý thức?
Một ý niệm về pháp được hình
thành thông qua bốn phần của thức. Đó là kiến
phần, tướng phần, tự chứng phần và chứng tự chứng phần. Để dễ nắm bắt bốn phần này, chúng ta phân tích
thí dụ sau:
Bạn đang ngồi trong công
viên, tâm hồn thư thái không chú ý đến việc gì. Bỗng có một hình ảnh cao gầy
lướt qua, trong tâm bạn liền khởi lên ý niệm : Anh A.
. Tướng (cao gầy) mà mắt bạn
ghi nhận được, là tướng phần.
. Cái biết về tướng cao gầy,
là kiến phần.
. Anh A là thứ mà ý thức
phân biệt nhận biết. Anh A là pháp.
Đến đây, bạn dễ dàng nhận ra
sự sai khác giữa ý thức và 5 thức trước. Cái mà nhãn thức biết được là một tướng.
Tướng đó, thông qua ý thức phân biệt
trở thành cao gầy, là tướng phần của ý
thức phân biệt. Ý thức phân biệt không chỉ biết được tướng cao gầy mà còn
biết được đó là anh A.
A này từ đâu xuất hiện?
Như đã nói, ở thời điểm hiện
tại khi ý thức biết được tên gọi là A, thì hình ảnh và tên gọi của A đã được
lưu trữ trong vô thức. Khi ý thức nhận biết được tướng cao gầy, lập tức thông
tin này được đưa vào kho lưu trữ để tra cứu rồi rút ra kết luận là anh A. Bộ
phận có nhiệm vụ tra cứu và xác chứng đó, gọi là tự chứng phần. Phần này hoạt động trong vô thức. Ý thức là nơi tiếp
nhận kết quả của sự xác chứng.
Trong thực tế có vô số người
có tướng cao gầy, do đó sự xác chứng của tự
chứng phần có thể chưa phù hợp. Muốn xác chứng được chính xác cần có một bộ
phận kiểm tra để xác nhận cho sự chứng thành của phần tự chứng. Bộ phận thứ tư
này gọi là chứng tự chứng phần. Trong
thí dụ trên, phần này hoạt động như sau:
Thông tin cao gầy mà kiến
phần cung cấp cho tâm vẫn còn quá đơn sơ chưa đầy đủ. Đến đây bạn hướng sự chủ
ý của mình đến đối tượng trên, nhìn kỹ hơn đối tượng ấy. Sự nhìn kỹ, như thấy
rõ khuôn mặt, mắt, tai, màu da… giúp bạn có nhiều thông tin hơn. Song song với
việc làm này, bên trong chứng tự chứng
phần sẽ lôi những thông tin đã được lưu trữ cấp cho phần tự chứng. Phần này sẽ đối chiếu những
thông tin về A đang được lưu trữ trong vô thức với những thông tin mới mà kiến
phần vừa cung cấp để đi đến kết luận cuối cùng. Kết luận này sẽ xuất hiện nơi ý
thức đó là A hay không phải A.
Diễn giải trên nhằm giúp
chúng ta dễ nhận ra bốn phần của thức vận hành thế nào. Thực tế, với một sự vật
quen thuộc, quá trình trên hoạt động gần như đồng thời và cho ra liền kết quả.
Cần biết thêm về tự chứng phần và chứng tự chứng phần:
Muốn chứng thành một pháp
được chính xác, đòi hỏi phải lưu giữ nhiều thông tin về pháp. Điều này đòi hỏi
phải có nhiều lần tiếp xúc với pháp. Cứ mỗi lần tiếp xúc là mỗi lần các thức
của chúng ta ghi nhận được thông tin của pháp. Sự ghi nhận có thể do cố ý hay
không cố ý đều được lưu giữ trong vô thức. Nói cách khác khi tiếp xúc với pháp,
những gì mà sáu thức ngoài ghi nhận được từ pháp đều được lưu giữ lại. Đây là
cơ sở cho việc chứng thành pháp ở những lần sau. Thí dụ trên cho thấy việc
chứng thành pháp ở nhãn thức. Với các thức còn lại cũng như vậy. Như mới nghe
tiếng chưa thấy mặt cũng đã nhận ra là ai, mới ngửi mùi cũng biết đó là thứ gì.
Nếu có điều kiện tiếp xúc
thường xuyên với pháp, những thông tin mới xuất hiện do sự biến đổi của pháp
liền được ghi nhận và cho vào kho lưu trữ. Nghĩa là, tâm luôn cập nhật những
thông tin mới về pháp thì việc chứng thành pháp diễn ra dễ dàng hơn.
Pháp, trên thực tế vừa đa
dạng vừa hay biến đổi, nhưng cũng có những thông tin ít biến đổi, nhờ vậy tâm
vẫn có thể chứng thành pháp dựa trên những thông tin đó. Như A có một tướng đi
rất đặc thù ít thay đổi. Và vì thế dù các tướng khác đã thay đổi, chúng ta vẫn
có thể nhận ra A thông qua tính cách đó.
Tóm lại, đối tượng nhận biết
của ý thức là pháp, không đồng với 5 thức trước. Việc tạo thành một ý niệm về
pháp ở bên ngoài là kết quả phối hợp của các thức trong (phần vô thức) và thức
ngoài. Ngoại cảnh và nội tâm đều góp phần cho ý thức hiện hành. Do đó, thứ mà ý
thức phân biệt biết được bao giờ cũng là một hiện tượng, trong đó tâm với vật
không lìa nhau, dù tâm không phải là vật, vật không phải là tâm. Tâm và vật vốn
bình đẳng trong thế giới hiện tượng. Không một thành phần nào, dù là tâm hay
vật, được quyền thiếu vắng nơi hiện tượng.
Nói qua về hoạt động của tư duy
Tư duy là hoạt động quan
trọng của ý thức phân biệt. Với nhiều người trong chúng ta, biết vẫn chưa đủ,
cần phải hiểu. Đây là lý do để tư duy xuất hiện. Thứ mà ý thức biết được là
pháp. Vì thế đối tượng tìm hiểu của tư duy cũng chính là pháp.
Pháp, là muôn sự muôn vật,
phức tạp hơn nhiều so với những gì ta thường nghĩ. Ý thức có thể có nhiều cái
nhìn khác nhau về pháp dẫn đến việc có nhiều ý nghĩa sai khác nơi một pháp.
. Như anh A đối với tôi là
bạn, với B là kẻ thù, với C là người cha, với D là chồng...
. Với một cánh hoa, chúng ta
có thể nhìn nó trên khía cạnh mỹ thuật (xấu hay đẹp), trên khía cạnh văn học
(hoa này biểu trưng cho tình yêu), trên khía cạnh vật lý (nặng 2gr), trên khía
cạnh hóa học (dùng làm nước hoa), trên khía cạnh y học (dùng làm thuốc).
Vì có nhiều khía cạnh khác
nhau nên có nhiều lối tư duy khác nhau dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau
trên cùng một pháp.
Hỏi : Vì sao ta chỉ có thể tư duy trên từng cái nhìn
sai khác của ý thức?
Đáp: Vì chỉ trên từng cái nhìn sai khác, pháp mới hiển
bày ra một ý nghĩa nào đó làm cơ sở cho việc tư duy. Lìa ngoài cái nhìn sai
khác của ý thức, không có một ý nghĩa nào của pháp được hiển bày. Trong trường
hợp này, tư duy không thể xuất hiện.
Hỏi: Tại sao chúng ta không thể tư duy trên cái nhìn
tổng quát về pháp mà phải tư duy trên từng khía cạnh sai khác của pháp? Chẳng
phải chúng ta vẫn thường tư duy qua các khái niệm, định nghĩa mà khái niệm định
nghĩa là cái nhìn tổng quát về pháp?
Đáp: Điều đó chỉ đúng nếu chúng ta có được những định
nghĩa hoàn hảo về pháp. Một định nghĩa hoàn hảo là một định nghĩa nói lên được
yếu tính (nếu có) của pháp. Trên thực tế, chúng ta khó có thể có một định nghĩa
hoàn hảo về bất kỳ một pháp nào xuất hiện trong thực tế. Thời đại chúng ta đã
chứng kiến sự thay đổi liên tục của các khái niệm, định nghĩa. Có thể nêu một
trường hợp cụ thể sau:
Khái niệm về thành phần cơ
bản của vật chất đã thay đổi nhiều. Thoạt tiên thành phần cơ bản của vật chất
là nguyên tử, kế đến là các hạt hạ nguyên tử, hiện tại là các quarks. Vấn đề
được đặt ra ở đây là các quarks có phải là thành phần cơ bản của vật chất chưa?
Đây là điều mà không một nhà vật lý nào dám khẳng định một cách tuyệt đối. Nói
cách khác, khái niệm về thành phần cơ bản vẫn còn có thể thay đổi. Khái niệm
thay đổi thì định nghĩa thay đổi. Định nghĩa thay đổi thì đó chưa phải là định
nghĩa hoàn hảo về thành phần cơ bản của vật chất. Và như thế chúng ta sẽ không
có một định nghĩa nào hoàn hảo về pháp. Vì bất cứ một pháp nào thuộc lãnh vực
vật chất cũng là một tổ hợp của các thành phần cơ bản.
Tóm lại, định nghĩa hay khái
niệm đều chỉ là cái nhìn chưa đầy đủ về pháp, chỉ thấy được một phần của pháp.
Vì thế, tư duy qua định nghĩa vẫn là tư duy trên một cái nhìn của ý thức về
pháp mà thôi.
Đến đây, chúng ta đã có được
một kiến thức về ý thức. Dù còn rất đơn sơ nhưng tạm đủ để giải quyết những vấn
đề đã nêu ra ở đầu bài.
Ý thức và trí thông minh nhân tạo
Việc đối tượng nhận biết của
ý thức là pháp, đã gây ra những khó khăn trong việc tạo ra trí thông minh nhân
tạo. Cụ thể như:
1/ Không thể chương trình
hóa bất cứ một pháp nào xuất hiện trong thực tế : Pháp tướng của một pháp vừa
có tính đa đạng vừa luôn thay đổi, nên không thể biết hết mọi pháp tướng có thể
xuất hiện, dù chỉ của một pháp. Không một thuật toán nào có thể hàm chứa mọi
pháp tướng của một pháp, huống là tất cả pháp. Điều này giải thích tại sao viết
chương trình để robot chơi cờ hoặc giải các bài toán đại số phức tạp dễ hơn
nhiều so với việc làm cho robot phân biệt được một tách trà với cái bàn.[2]
Có thể cụ thể hóa điều nói
trên bằng một thí dụ vui như sau:
Cái bàn lúc còn mới có bốn
chân, sau một thời gian chỉ còn ba chân rưỡi. Để tiếp tục sử dụng, người ta kê
vào đó một khúc chêm khác. Trường hợp này, ý thức của ta vẫn dễ dàng nhận ra
cái bàn, nhưng với một robot, nhận ra một vật với ba chân rưỡi cộng với một vật
chêm bằng gỗ hoặc gạch là điều gần như không thể.
Lại nữa, trên thực tế có
nhiều kiểu bàn khác nhau. Đặc biệt với những kiểu bàn được tạo ra từ ý tưởng
của các nhà nghệ sĩ, kiểu dáng của nó càng thêm phức tạp lập dị. Việc viết một
chương trình thích ứng với sự sáng tạo đầy phóng túng của các nghệ sĩ là không
thể. Trong khi đó, ý thức của chúng ta lại dễ dàng thích ứng với các sáng tạo
nói trên. Vì sao? Vì đối tượng nhận biết của ý thức là pháp.
2/ Việc tạo ra một robot có
khả năng nhận biết về pháp đã là quá khó khăn, thì việc tạo ra một robot có khả
năng tư duy như ý thức càng khó khăn hơn nhiều lần. Không thể tạo ra một robot
có vô số cái nhìn về pháp như ý thức được. Trong khi đó, chính khả năng tư duy
trên pháp của ý thức đã giúp cho con người có khả năng thích ứng và tồn tại cao
trong một thế giới đầy biến động, đầy bất trắc mà chúng ta đang sống.
Vẫn còn nhiều khó khăn khác
nữa nhưng đến đây chúng ta đã có thể kết luận “trí thông minh nhân tạo” không
thể trở thành hiện thức.
Ý thức và sự tạo thành thế giới
Vấn đề này xuất hiện từ Cơ
học lượng tử, một trong hai trụ cột chính của nền vật lý hiện đại. Theo cơ học
lượng tử, thành phần cơ bản của vật chất có hai mặt: Một, là sóng. Hai, là hạt.
Hai mặt này có tính chất trái ngược nhau. Sóng thì liên tục. Hạt thì không liên
tục. Khi chưa tiến hành quan sát đo đạt, chúng ta chưa thể nói nó là gì. Chỉ
sau khi tiến hành đo đạt, nó mới biểu hiện ra là sóng hay là hạt. Sự kiện này
đã làm phát sinh ra nhiều quan điểm triết học khác nhau. Trong đó, quan điểm
của nhóm Copenhagen hiện được nhiều người công nhận nhất.
Đại diện cho nhóm
Copenhagen, là Bohr và Heisenberg, đã phát biểu: “Thuyết lượng tử nói về sự vận
hành của tự nhiên trong lãnh vực nguyên tử cho thấy nó (tự nhiên) phản ứng thế
nào khi được các thiết bị đo lường xem xét”. Theo quan điểm này những gì quan
sát đo lường được mới là những sự kiện có thật.
Về sau quan điểm này được
đẩy đi xa hơn khi cho rằng vật chất có hai mặt sóng và hạt: Sóng là khả năng xuất hiện của sự vật. Hạt là sự
vật đã thật sự xuất hiện. Cái gì đã làm cho sóng biến thành hạt? Chính tác động
đo lường của chủ thể nhận thức đã làm cho sóng biến thành hạt. Nói cách khác,
chính tác động tra vấn của ý thức đã làm cho khả năng biến thành hiện thực. Đến đây có một câu hỏi được nêu ra: “Phải
chăng thế giới được xây dựng bằng ý thức?”.
Để giải quyết vấn đề này
chúng ta cần lưu ý một số điểm sau:
1/ Khoa học được xây dựng
trên tinh thần thực nghiệm. Vì thế mọi lý giải khoa học chỉ có giá trị khi nó
tỏ ra phù hợp với các sự vật xuất hiện trong thế giới mà chúng ta đang sống. Nghĩa
là, thế giới đã xuất hiện rồi, không chờ
sự tra vấn của ý thức, thế giới mới xuất hiện. Sự tra vấn của ý thức là để có
được sự hiểu biết về thế giới đã được công nhận.
2/ Việc đẩy quan điểm của
nhóm Copenhagen đi quá xa như đã nói trên sẽ dẫn đến các nghịch lý, cụ thể là
nghịch lý “Con mèo Schrodinger”.
Con mèo Schrodinger: Một con mèo được
giam trong một phòng có chứa một bình thuốc độc. Bình sẽ vỡ khi có sự phân hủy
của một nguyên tử - Sự phân hủy này sẽ kích hoạt một hệ thống đập vỡ cái bình.
Khi bình chưa vỡ mèo vẫn sống, nếu bình vỡ mèo chết. Thực tế chúng ta không
biết chính xác lúc nào xảy ra sự phân hủy mà chỉ biết xác xuất của sự phân hủy.
Như trong một giờ xác xuất ấy là 50%. Như vậy trong vòng một giờ số mạng của
con mèo là tổ hợp của 50% sống và 50% chết.
Theo phái Copenhagen, khi
chưa mở phòng, tức khi chưa quan sát, trạng thái của nguyên tử là chưa xác định
và con mèo ở trong tình trạng nửa sống nửa chết. Chỉ sau khi mở phòng, trạng
thái của con mèo mới được xác định là sống hay chết.
Với Schrodinger, ở đây xuất
hiện một nghịch lý. Việc cho rằng con mèo sống hay chết phụ thuộc vào hành vi
mở phòng, trong khi trên thực tế, nếu con mèo chết nó đã chết trước rồi không
đợi mở phòng mới chết thật.
Sở dĩ có nghịch lý nói trên
vì người ta đã phạm hai sai lầm chính:
. Sai lầm trên mặt biện
chứng: Trong một thế giới đã xuất hiện, một thành phần cơ bản của vật chất (nói
rộng là một sự vật nào đó) khi chưa quan sát đo lường, chúng ta không thể nói
nó là hạt cũng không thể nói nó không phải là hạt. Việc cho rằng khi chưa quan
sát thì sự vật không có, tức đã lấy phần đầu (không thể nói nó là hạt) mà bỏ đi
phần sau (không thể nói nó không phải là hạt). Đây là một nhận định thiên lệch
không phù hợp với thực tế. Chính điều này dẫn đến các nghịch lý.
. Sai lầm trên mặt lý: Trong
thế giới đã xuất hiện, các sự vật vận hành theo lý nhân duyên. Lý nhân quả là
một hình thái đơn giản của lý nhân duyên, vì thế nó có một phạm vi tác động hạn
chế. Việc đẩy lý nhân quả vượt ngoài phạm vi tác động của nó, như trường hợp mở
rộng quan điểm của phái Copenhagen,[3]
sẽ đưa đến nghịch lý. Với lý nhân duyên, chúng ta sẽ có một lý giải hoàn toàn
phù hợp với thực tế, mà không gặp phải một nghịch lý nào cả.
Từ hai điều vừa nêu trên,
chúng ta có thể kết luận: Thế giới không phải được tạo dựng bằng ý thức. Vậy ý
thức có tham gia vào việc tạo ra thế giới hay không? Nếu có, nó tham gia ở mức
độ nào?
Thế giới là một pháp. Vì
chúng ta chỉ có thể tư duy trên từng cái nhìn của ý thức về pháp nên chúng ta
chỉ có thể hiểu về thế giới trên từng cái nhìn của ý thức. Một cái nhìn là một kiến chấp – nói một cách dễ hiểu, là một
quan điểm của chúng ta về thế giới. Như vậy, ý thức đã tham gia vào việc tạo ra
thế giới được hiểu biết bằng những
quan điểm của nó.
Có thể dễ dàng kiểm chứng
điều vừa nói.
Với những quan điểm như Duy
tâm, Duy vật, Duy hiện tượng … con người đã tạo ra triết học và khoa học. Ở
từng môn học, ngoài những quan điểm chính còn có những quan điểm phụ, tạo ra sự
tách biệt giữa môn học này và môn học khác.
Với triết học và khoa học,
chúng ta đã có được những tri thức về thế giới. Khi quan điểm thay đổi sẽ làm
phát sinh những tri thức mới. Đem vận dụng những tri thức có được vào thực tế,
chúng ta đã làm biến đổi thế giới. Rõ ràng ý thức đã tham gia vào việc tạo ra
sự hiểu biết và biến đổi thế giới.
Vậy ý thức đã tham gia ở mức
độ nào? Điều này còn tùy. Một quan điểm nếu được nhiều người đồng thuận sẽ tạo
ra một sự thay đổi về mặt nhận thức và tạo ra một tác động lớn hơn so với những
quan điểm được ít người đồng thuận.
Thí dụ 1: Việc cho rằng da
một loài thú nào đó là quí và sang trọng khi dùng làm áo choàng, nếu điều này được
nhiều người đồng ý, chỉ một thời gian sau loài vật ấy gần như tuyệt chủng.
Thí dụ 2 : Thuyết Tương đối
lúc mới ra đời chưa được nhiều người đồng thuận thì tác động của nó chưa nhiều.
Về sau, khi đã được giới khoa học công nhận, đã tạo ra những nhận thức mới về
thế giới và đã làm biến đổi thế giới của chúng ta một cách sâu sắc.
Tóm lại, ý thức có tham gia
vào việc tạo tác thế giới nhưng chỉ ở mức độ có giới hạn.
Gặp lại chuyện xưa
Trong quá khứ không ít lần
các nhà khoa học đã cho rằng chỉ cần thêm một thời gian ngắn, chúng ta sẽ nắm
bắt được mọi qui luật vận hành của thế giới. Song vào thời điểm quyết định đó, thiên
nhiên lại trình hiện một bộ mặt mới tinh tế, phức tạp và sâu rộng hơn. Khoa học
lại phải tiếp tục con đường của nó.
Câu chuyện của chúng ta cũng
giống như thế. Với ý thức, chúng ta đã tạo ra triết học và khoa học. Hiện nay
chúng ta đã thâu lượm được một lượng tri thức khổng lồ. Chúng ta đã hiểu biết
mọi thứ nhưng thứ mà chúng ta hiểu biết ít nhất là ý thức, là công cụ chính yếu
tạo ra tri thức. Chính sự khiếm khuyết này đã gây ra nhiều vấn đề, nhiều vướng
mắc trong lãnh vực tri thức. Hiện nay một số nhà khoa học cho rằng: Ý thức là
vấn đề cuối cùng của tri thức. Hiểu được ý thức là tiền đề đưa đến chỗ chung
cùng của tri thức. Với họ, câu hỏi “Ý thức là gì?” tương đương với câu hỏi “Bản
thể là gì?”.
Cũng như những lần trước,
hiểu được ý thức lại làm nẩy sinh vấn đề vô thức. Vô thức không chỉ tác động
lên ý thức bằng những nguyên động lực ẩn chứa trong nó – như Phân tâm học đã
nhìn thấy – mà còn đóng vai trò rất lớn trong việc tạo ra các ý niệm cho ý
thức. Ngày nào chúng ta chưa thấu tỏ phần vô thức của chính mình thì ý thức vẫn
chịu nhiều ràng buộc của các thế lực vô hình trong vô thức. Một ý thức như thế
không có nhiều tự do như chúng ta vẫn lầm tưởng. Một ý thức như thế không thể
làm thượng đế.
Đến đây chúng ta dễ dàng
nhận ra việc hiểu được ý thức chưa giải quyết được vấn đề bản thể.
Sự hiểu biết về ý thức đã
giúp giải quyết vấn đề trí thông minh nhân tạo, nhưng những câu hỏi đến từ Cơ
học lượng tử như thế giới này là có hay là không, là khách quan hay chủ quan,
vật chất có phải là một thực thể tách biệt với ý thức hay không, vấn đề khả
năng và hiện thực, tính ngẫu nhiên và tính tất yếu v.v… chỉ mới được giải quyết
phần nào. Muốn giải quyết thỏa đáng những câu hỏi đó, trước hết chúng ta phải
giải quyết những câu hỏi liên quan đến bản thể học, cụ thể như: Thực tánh của
tất cả pháp là gì? Thực lý chi phối tất cả pháp là gì? Lý nhân quả - nền tảng
của các ngành khoa học – có đủ khả năng lý giải tất cả mọi sự vật hay không?
Nếu không, giới hạn của lý nhân quả là gì…
[1] Cách diễn giải từ ngoài vào
trong này là thuận với cái nhìn của nhân sinh mà nói cho dễ hiểu.
[3] Việc mở rộng quan
điểm của phái này được xây dựng trên
các phương trình sóng của Schrodinger.
Đây là những phương trình được xây dựng trên lý nhân quả. Việc cho rằng các
phương trình này vừa có giá trị phổ quát, vừa đúng cho mọi trường hợp riêng lẽ
của các sự vật đã đẩy lý nhân quả vượt ra ngoài phạm vi tác động của nó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét